Tuần 101: Sách Công vụ Tông đồ (chương 1 – 8)
Sách Công vụ Tông đồ (chương 1 – 8)
***
TỔNG QUÁT
- Tầm quan trọng của sách Công vụ
Sách Công Vụ là cuốn sách duy nhất trong bộ Tân Ước đã nối kết câu truyện về Chúa Giêsu với câu truyện về Giáo Hội sơ khai. Nhờ đó không những chúng ta có thêm thông tin về Giáo Hội sơ khai mà còn hiểu thêm về những sách khác trong Tân Ước.
Tuy nhiên, tầm quan trọng của sách Công Vụ không chỉ ngừng lại ở đây. Chúng ta tin rằng những gì được ghi lại trong Sách Thánh không chỉ là những lời liên quan đến quá khứ nhưng còn là lời Chúa nói với ta ngày nay. Vì thế những câu truyện trong sách Công Vụ là những mẫu điển hình, qua đó ta hiểu được cách thế Thiên Chúa hướng dẫn Dân Ngài, ngày xưa cũng như ngày nay. Dưới sự linh hứng của Chúa Thánh Thần, thánh Luca đã viết sách Công Vụ trong ý hướng này. Trong số rất nhiều câu truyện, ngài đã chắt lọc những gì quan trọng nhất để làm mẫu mực cho đời sống Kitô hữu. Ngài tập trung vào một số câu truyện và mô tả thật sâu. Ngài nối kết truyện kể với các diễn từ, nhờ đó làm nên tổng thể cho những vấn đề được trình bày. Khi viết như thế, thánh Luca không chỉ đóng vai một sử gia thuần tuý nhưng còn như một mục tử cung cấp mẫu sống đức tin cho cộng đoàn tín hữu. Vì thế sách Công Vụ không chỉ đơn thuần là một tư liệu lịch sử nhưng trước hết và trên hết, là bài tường thuật đức tin. Thật vậy, ta có thể coi sách Công Vụ là bản trình bày lối sống Kitô hữu bước theo Chúa Giêsu, được thể hiện cách sinh động nơi các Kitô hữu thuở ban đầu.
- Lược đồ tổng quát
1,12 – 8,3 Giáo Hội tại Giêrusalem được khai sinh và phát triển trong tác động của Thánh Thần
8,4 – 9,31 Cuộc bách hại và sự phát triển của Giáo Hội tại Giuđêa và Samaria
9,32 – 15,35 Dân ngoại: Phêrô và Cornêliô, Barnabê và Saulê, Công đồng Giêrusalem
15,36 – 18,23 Sứ mạng của thánh Phaolô: hành trình truyền giáo lần II
18,24 – 21,14 Thánh Phaolô tại Giêrusalem: hành trình truyền giáo lần III
21,15 – 26,32 Tù nhân Phaolô làm chứng cho sự phục sinh
27,1 – 28,31 “Con sẽ làm chứng tại Roma”
NHỮNG CHỦ ĐỀ CHÍNH
- Chương trình cứu độ được hoàn thành
Sách Công Vụ khởi đầu bằng sự kiện Thăng Thiên và Lễ Ngũ Tuần. Thánh Thần là sự thể hiện tối hậu những lời hứa cho Abraham. Chính Ngài xức dầu các vị thủ lãnh của Dân Chúa, ban sức mạnh cho các Kitô hữu để họ rao giảng, chữa lành, xua trừ thần dữ, và làm chứng cho Đức Kitô Phục sinh đến tận cùng trái đất. Như thế, Ngài khôi phục Israel và chúc phúc cho mọi dân tộc bằng cách đưa họ vào Dân Thiên Chúa mà không cần phải chịu phép cắt bì.
- Đức Kitô Phục sinh hoạt động qua các môn đệ trong tác động của Thánh Thần
Sau khi về trời, Chúa Giêsu tiếp tục hoạt động qua các môn đệ của Người bằng cách ban Thần Khí của Người cho họ, để họ rao giảng và chữa lành nhân danh Người; cách riêng qua thánh Phaolô là người “rao giảng ánh sáng cho dân Do Thái cũng như cho dân ngoại” (26,23). Ai khước từ các môn đệ Chúa Giêsu là khước từ chính Chúa và bị loại ra khỏi sự hiệp thông với Dân Chúa (3,23).
- Duy trì sự liên tục ngay giữa những thay đổi
Ngày nay, không ít Kitô hữu cảm thấy ngỡ ngàng và bực bội trước những thay đổi quá nhanh trong Giáo Hội. Vào thời thánh Luca cũng thế, cách riêng với những Kitô hữu gốc Do thái. Sách Công Vụ cho thấy chính Thiên Chúa khởi xướng những thay đổi lớn lao này, từ chỗ chỉ là một nhóm môn đệ người Do thái đến chỗ trở thành một Giáo Hội với đa số là người gốc dân ngoại, có mặt khắp đế quốc Rôma, nhất là khi thánh Phêrô và Phaolô đón nhận dân ngoại vào Giáo Hội mà không cần chịu phép cắt bì. Tuy nhiên, thay đổi mà vẫn duy trì tính liên tục. Nhóm Mười Hai và những Kitô hữu gốc Do thái là sợi giây nối kết hiện tại với truyền thống.
- Kitô giáo phát triển vượt qua mọi trở ngại
Sách Công Vụ thường xuyên ghi nhận rằng “Lời Thiên Chúa tiếp tục được trải rộng”, bất kể bị bắt bớ hay bách hại thế nào.
- Thiên Chúa hướng dẫn Dân Ngài
Toàn bộ sách Công Vụ làm nổi bật sự chỉ đạo của Thiên Chúa. Các tông đồ không tự ý đi đến nơi các ngài muốn. Chúa không cho phép Phaolô đi đến châu Á nhưng hướng dẫn ông đi Macêđônia và Hi Lạp (chương 16). Thiên Chúa chỉ đạo Dân Ngài qua Thánh Thần, những thị kiến, giấc mơ, các thiên thần, những lời tiên tri. Tất cả đều cho thấy những quyết định và hành động của Giáo Hội sơ khai không phải là ý tưởng nhân loại nhưng là hành động theo sự hướng dẫn của Thiên Chúa.
- Biện hộ cho Kitô giáo, cách riêng thánh Phaolô
Sách Công Vụ biện hộ cho thánh Phaolô và các Kitô hữu gốc Do thái (khi họ bị kết án là phản đạo) bằng cách nhấn mạnh sự trung thành của họ với Lề luật, đồng thời nhấn mạnh rằng việc đón nhận dân ngoại mà không cần cắt bì là quyết định của Thiên Chúa. Sách Công Vụ cũng biện hộ cho sự vô tội của Phaolô đối với luật Rôma. Việc các thẩm phán Rôma kết luận Phaolô “vô tội” (Cv 22-26) cho thấy các Kitô hữu không phải là mối đe dọa cho sự an ninh của đất nước.
PHÉP RỬA TRONG THÁNH THẦN (2, 1-21)
Cuối cùng, điều mà Chúa Cha đã hứa, điều mà Đức Kitô đã nói đến và các môn đệ trông mong (Cv 1,4), điều ấy đã đến, đó là Phép Rửa trong Thánh Thần.
Vào ngày lễ Ngũ Tuần, người Do thái đi hành hương lên Giêrusalem để kỷ niệm việc Thiên Chúa thiết lập Dân Ngài qua việc ban Lề luật trên núi Sinai. Trong ngày ấy, khi cộng đoàn các môn đệ Chúa Giêsu đang họp nhau cầu nguyện (x.1,14), thì “bỗng từ trời phát ra một tiếng động như tiếng gió mạnh ùa vào… Rồi họ thấy những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một” (2,2-3). Từ rất lâu trong Cựu Ước, người Do thái đã liên kết “gió” với “thần khí”. Gioan Tẩy giả đã nói tiên tri về lửa và Thánh Thần: Đấng đến sau tôi nhưng quyền năng hơn tôi, “sẽ rửa anh em trong Thánh Thần và lửa” (Lc 3,16). Như thế, đây chính là lúc lời tiên tri được thực hiện.
Khi “ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói đến các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho” (2,4). Việc nói các thứ tiếng khác ở đây là ân huệ Thánh Thần nhằm thi hành sứ vụ truyền giáo. Thật ích lợi biết bao nếu các nhà truyền giáo có thể rao giảng Lời Chúa bằng nhiều ngôn ngữ! Ở đây xem ra thánh Luca không nghĩ đến điều mà thánh Phaolô gọi là “ơn ngôn ngữ” trong thư 1Cor 12-14. Thánh Phaolô không mô tả “ơn ngôn ngữ” như nói thứ tiếng nào của loài người, nhưng là cách thế cầu nguyện với Thiên Chúa mà không cần đến lời nói và lý luận.
Điều quan trọng trong trình thuật này là sự đảo ngược những gì đã xảy ra trong trình thuật tháp Babel (St 11,1-9). Ở Babel, người ta nói cùng một ngôn ngữ nhưng lại không hiểu nhau. Còn trong lễ Ngũ Tuần, cả những người sử dụng các ngôn ngữ khác vẫn hiểu được lời của các Tông đồ: “Tại sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta?”
THÁNH THẦN TÁC ĐỘNG ĐỜI SỐNG CỘNG ĐOÀN (2,42-47)
Thánh Luca trình bày hình ảnh lý tưởng về cộng đoàn Kitô hữu đầu tiên, và hình ảnh này vẫn là gợi hứng cần thiết cho Giáo Hội ngày nay. Khi một cộng đoàn Kitô hữu chân thành sám hối và mở lòng ra cho quyền năng Thánh Thần, thì sẽ có những thay đổi lạ lùng trong cộng đoàn và lôi kéo nhiều người khác đến với Chúa. Những yếu tố trong đời sống cộng đoàn được thánh Luca đề cao là: giáo huấn tông đồ, chia sẻ đời sống với nhau, bẻ bánh (Thánh Thể), cầu nguyện chung. Họ cảm nhận quyền năng của Thánh Thần qua những điềm thiêng dấu lạ (Cv 2,19; Joel 3,3).
“Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, để mọi sự làm của chung” (2,44). Điểm chính yếu ở đây là không ai phải thiếu thốn, không có cảnh người thì thừa mứa, kẻ lại thiếu ăn. Thánh Luca còn nhấn mạnh một hoa trái khác của Thánh Thần là niềm vui và sự ca tụng Chúa. Đừng quên rằng cộng đoàn đầu tiên này là Kitô hữu gốc Do thái. Họ vẫn gắn bó với truyền thống Do thái giáo, được người Do thái kính trọng và lôi kéo nhiều người Do thái khác vào cộng đoàn: “Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ” (2,47).
CUỘC TỬ ĐẠO CỦA THÁNH TÊPHANÔ VÀ SỰ PHÁT TRIỂN CỦA GIÁO HỘI (7,54 – 8,3)
“Được đầy ơn Thánh Thần, ông đăm đăm nhìn trời, thấy vinh quang Thiên Chúa và thấy Chúa Giêsu đứng bên hữu Thiên Chúa. Ông nói: “Kìa, tôi thấy trời mở ra và Con Người đứng bên hữu Thiên Chúa” (7,54). Trong Tân Ước, Chúa Giêsu nhiều lần dùng từ “Con Người” để nói về Ngài. Nhưng đây là lần đầu tiên, một người khác ngoài Chúa Giêsu nói về Chúa bằng từ “Con Người”.
Thánh Luca xây dựng trình thuật này bằng cách đối chiếu cái chết của Têphanô với cái chết của Chúa Giêsu. Têphanô bị lôi ra ngoài thành (Cv 7,58) cũng như Chúa Giêsu bị đóng đinh ngoài thành Giêrusalem. Khi bị hành hình, Têphanô cầu nguyện rằng: “Lạy Chúa Giêsu, xin nhận lấy linh hồn con” (7,59), giống như lời cầu của Chúa Giêsu: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46). Cả hai vị đều tha thứ cho những người giết hại mình: “Lạy Cha, xin tha cho họ vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34) và “Lạy Chúa, xin đừng chấp họ tội này” (Cv 7,60). Điều đáng quan tâm ở đây là Chúa Giêsu cầu nguyện với Chúa Cha, còn Têphanô cầu nguyện với Chúa Giêsu.
Với thánh Luca, lời cầu xin tha thứ này rất quan trọng. Ngài nối kết lời xin tha thứ của Chúa Giêsu với sự sám hối của người Do thái ở Giêrusalem (Cv chương 2 và 3). Cũng thế, lời cầu xin tha thứ của Têphanô gắn với ơn trở lại của Phaolô (Cv 9,4-6). Chính vì thế, ngay sau lời cầu xin tha thứ của Têphanô, thánh Luca đã nhắc đến Phaolô (8,1). Đây cũng là lý do ngay sau trình thuật về cuộc tử đạo của Têphanô, thánh Luca nói đến cuộc bách hại lan tràn: “mọi người đều phải tản mác về các vùng quê miền Giuđêa và Samari” (8,2). Tuy nhiên, đây lại là cơ hội cho Tin Mừng được lan rộng khắp nơi.
Tuần 102: Sách Công vụ Tông đồ (chương 9 – 18)
Ngày đăng: Thứ Ba 08.03.2016
CUỘC TRỞ LẠI CỦA THÁNH PHAOLÔ (9,1-9)
Đối với những biến cố quan trọng, thánh Luca thường kể lại đến 3 lần, mỗi lần có khác nhau một chút về chi tiết. Cũng thế, Luca không những kể lại trình thuật Chúa kêu gọi Phaolô ở đây (9,1-9) mà còn ở chương 22,3-21 và chương 26,9-20. Điều đó cho thấy tầm quan trọng của ơn gọi này cũng như ý nghĩa hàm chứa bên trong.
Khi so sánh ba trình thuật về ơn gọi của Phaolô, người ta thấy điều cốt lõi của sự kiện vẫn được giữ nguyên. Vị thượng tế truyền lệnh cho Saulê bắt và giải những người theo Đạo về Giêrusalem (9,2). “Đạo-Con Đường” có lẽ là tên gọi đầu tiên dành cho các Kitô hữu. Trên đường đi Damas, Saulê bị quật ngã ngựa, luồng ánh sáng từ trời bao phủ ông và ông nghe tiếng nói: ‘Saulê, Saulê, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” Chỉ một mình Saulê thấy ánh sáng và nghe tiếng gọi, cũng giống như những lần Đức Mẹ hiện ra ở Lộ Đức và Fatima, chỉ có những người trong cuộc mới nhìn thấy Đức Mẹ. Trong Cv 9,7, những người cùng đi với Phaolô chỉ nghe tiếng nói, còn trong Cv 22,9 và 26,13-14, họ chỉ thấy ánh sáng. Xem ra thánh Luca không bận tâm về những chi tiết này. Điều quan trọng là cả ba trình thuật đều nhấn mạnh Phaolô có sứ mạng làm chứng về Chúa cho dân ngoại.
“Saulê, Saulê, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” Tiếng nói này khẳng định Đức Kitô tự đồng hóa mình với các Kitô hữu (có thể so sánh với Mt 25,31-46). Điều gì người ta làm cho các Kitô hữu là làm cho chính Đức Kitô. Trong cả ba trình thuật, thánh Luca đều nhắc đến chi tiết này, chứng tỏ tầm quan trọng hàm chứa bên trong. Thật vậy, đây là kinh nghiệm thiêng liêng sâu sắc với thánh Phaolô. Sau này, chính ngài – chứ không ai khác – sẽ khai triển suy tư về Hội Thánh là Thân Mình mầu nhiệm của Đức Kitô.
Một ghi nhận khác cần quan tâm: Chúa trực tiếp gọi và hiện ra với Phaolô. Dù Ananias có tìm cách ngăn cản (9,13-14) nhưng Chúa vẫn yêu cầu ông phải đi gặp Phaolô, cũng như dù thánh Phêrô có chống chế, Chúa vẫn yêu cầu phải đến gặp Cornêliô (Cv chương 10). Tuy nhiên Ngài đòi hỏi Phaolô phải chịu phép Rửa và gia nhập cộng đoàn Hội Thánh. Như thế, dù Phaolô có kinh nghiệm gặp gỡ cá nhân với Thiên Chúa, ông vẫn cần phải sống đức tin trong Hội Thánh và thi hành sứ mạng trong sự hiệp thông với Hội Thánh.
Ngoài ra, thánh Luca thường xuyên nhấn mạnh đến cầu nguyện. Thiên Chúa can thiệp và chỉ dẫn Phêrô, Ananias, Phaolô hành động khi các ngài cầu nguyện. Ghi nhận này giúp chúng ta hiểu được tầm quan trọng của cầu nguyện: tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa khi chúng ta lắng nghe Ngài trong cầu nguyện.
MỞ RA CHO DÂN NGOẠI (10,1-43)
Chương 10 và 11 trong sách Công Vụ ghi lại những bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Hội Thánh. Hội Thánh không còn bị giới hạn trong cộng đồng người Do thái nhưng mở ra cho muôn dân. Chính Thiên Chúa là Đấng miễn chuẩn cho dân ngoại không phải chịu phép cắt bì theo luật Do thái. Bản thân thánh Phêrô cũng cảm thấy khó khăn khi đón nhận sáng kiến này, nhưng chính vì thế mới thấy rõ đây không phải là tư tưởng của loài người, mà là của Thiên Chúa. Thật vậy, chính Chúa đã truyền lệnh mọi nam nhân thuộc dân riêng của Ngài phải được cắt bì (St 17,10-14). Nay cũng chính Thiên Chúa rút lại lệnh truyền ấy vì đã đến thời cuối cùng, Thánh Thần được ban xuống tràn đầy trên mọi xác phàm (Cv 2,17-18; 10,44-47), và việc cắt bì trở thành không cần thiết. Cả hai thị kiến của Cornêliô và thánh Phêrô đều cho thấy sự can thiệp tỏ tường của Thiên Chúa trong bước ngoặt mới mẻ này.
Sau thị kiến của Cornêliô (10,1-8), thánh Phêrô có một thị kiến về thực phẩm. Ngài thấy những giống vật mà Cựu Ước cho là ô uế và cấm không được ăn (vd. Lêvi 11). Thế nhưng Chúa lại truyền lệnh hãy giết và ăn (10,13). Cũng như tiên tri Ezêkiel, Phêrô bày tỏ thái độ không chịu ăn những thứ ô uế. Chính lúc ấy, Thiên Chúa lên tiếng: “Những gì Thiên Chúa đã tuyên bố là thanh sạch thì ngươi chớ gọi là ô uế” (10,15). Và việc ấy xảy ra đến 3 lần, nghĩa là điều rất quan trọng. Câu 28 giúp ta hiểu được ý nghĩa của thị kiến này: “Quý vị thừa biết, giao du hay vào nhà một người khác chủng tộc là điều cấm kỵ đối với người Do thái. Nhưng Thiên Chúa đã cho tôi thấy là không được gọi ai là ô uế hay không thanh sạch”.
Những lời này cũng cho thấy những khó khăn mà các tông đồ nói chung, thánh Phêrô và Phaolô nói riêng, phải đối diện khi mở rộng vòng tay đón tiếp dân ngoại vào gia đình Hội Thánh. Theo truyền thống lâu đời, nhiều người bị cho là ô uế và không được tham dự những cuộc hội họp hoặc việc thờ phượng ở Đền thờ.. Họ là những người không giữ luật thanh tẩy, những người phong cùi, người Samari, người thu thuế và gái điếm. Tuy nhiên trong Tin Mừng Luca và sách Công Vụ, những người này lại được Chúa Giêsu và Thánh Thần thanh tẩy. Họ cũng được Thiên Chúa kêu gọi, nhưng trước hết họ phải được thanh tẩy để có thể đến gần Chúa. Việc thanh tẩy đó hàm nghĩa họ phải từ bỏ lối sống cũ: Lêvi không thu thuế nữa, người phụ nữ tội lỗi được yêu cầu không phạm tội nữa, dân ngoại phải bỏ lối sống vô luân. Chính Cornêliô cũng ý thức như vậy khi ông nói với thánh Phêrô: “Tất cả chúng tôi đang ở trước mặt Thiên Chúa, để nghe tất cả những gì Ngài đã truyền cho ông” (10,33).
CÔNG ĐỒNG GIÊRUSALEM (15,1-21)
Một số người Pharisêu gốc Giuđê đã gia nhập Kitô giáo nhưng họ chống đối việc đón nhận dân ngoại vào Hội Thánh mà không cần chịu phép cắt bì. Phaolô và Barnaba chủ trương ngược lại. Hội Thánh tại Antiôkia quyết định cử Phaolô, Barnaba và một vài người khác lên Giêrusalem gặp các Tông đồ và các kỳ mục để bàn về vấn đề này. Sự kiện này cho thấy ngay từ những thời kỳ đầu tiên, mọi người trong Hội Thánh đã nhìn nhận vai trò lãnh đạo của thánh Phêrô, và đã có sự hiệp thông chặt chẽ giữa các Hội Thánh địa phương với thánh Phêrô trong những vấn đề quan trọng của Hội Thánh.
Tại Công đồng Giêrusalem, các đại diện của Hội Thánh Antiôkia đã trình bày những thành quả, “những gì Thiên Chúa đã cùng làm với các ông” (15,4). Nhưng những Kitô hữu gốc Pharisêu yêu cầu “phải làm phép cắt bì cho người ngoại và truyền cho họ giữ luật Môsê” (15,6). Sau khi thảo luận sôi nổi, thánh Phêrô đưa ra quyết định. Ngài nhắc lại (lần thứ ba trong sách Công Vụ) rằng Thiên Chúa đã ban Thánh Thần cho các dân ngoại qua thừa tác vụ của ngài, và đã thanh tẩy tâm hồn họ bằng đức tin. Do đó họ không còn phải là những người ô uế hoặc không xứng đáng như một vài người Do thái nghĩ. Cuối cùng, ngài đưa ra khẳng định quan trọng: “Chính nhờ ân sủng của Chúa Giêsu mà chúng ta tin mình được cứu độ, cũng một cách như họ” (15,11). Khẳng định này là nguyên lý thần học hướng dẫn cách ứng xử của Hội Thánh đối với dân ngoại xin gia nhập Hội Thánh.
Thánh Giacôbê cũng đóng vai trò quan trọng trong công đồng. Ngài là anh em với Chúa Giêsu và là người lãnh đạo Hội Thánh tại Giêrusalem lúc ấy, được mọi người nhìn nhận là vị lãnh đạo mẫu mực. Vì thế tiếng nói của ngài có ảnh hưởng lớn với cộng đoàn. Trong diễn từ của mình, thánh Giacôbê cho thấy Kinh Thánh chấp thuận cách làm ở Antiôkia: “những lời của các tiên tri cũng phù hợp với điều ấy”, nghĩa là không bắt dân ngoại phải cắt bì khi họ gia nhập Hội Thánh. Ngài nhắc lời tiên tri Amos 9,11-12 để nhấn mạnh Kinh Thánh đã báo trước không những việc khôi phục Israel, mà cả sự hoán cải của “tất cả các dân ngoại” về với Chúa Giêsu. Tất cả đều ở trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa.
Do đó, Kitô hữu không nên đặt những chướng ngại cho dân ngoại trở lại với Chúa, nhưng chỉ đề nghị họ kiêng cữ một số điều. Trong những điều kiêng cữ, có 3 điều liên quan đến thực phẩm: những thức ăn ô uế vì đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn thịt loài vật không cắt tiết, kiêng ăn tiết. Còn điều thứ tư liên quan đến vấn đề gian dâm (porneia trong tiếng Hi lạp). Từ porneia này có lẽ muốn nói đến việc hôn nhân giữa những người chung huyết thống và như thế là không hợp pháp theo luật Do Thái. Nhưng có những người khác lại cho rằng porneia muốn nói đến chuyện gian dâm mà người Do thái thường phê phán dân ngoại: ngoại tình, mãi dâm, đồng tính luyến ái…tất cả những thứ đó đều xói mòn đời sống gia đình.
Kết thúc Công đồng, các Tông đồ và các kỳ mục cùng với toàn thể Hội Thánh đã gửi một lá thư, có thể gọi là Quyết Nghị của các Tông đồ, cho Hội Thánh ở Antiôkia (15,23-29). Lá thư ấy đem lại niềm vui lớn cho cộng đoàn (15,31).
DIỄN TỪ CỦA PHAOLÔ TRƯỚC ĐỒI ARÊÔPAGÔ (17,16-34)
Ở Atêna, thánh Phaolô rao giảng Tin Mừng bằng hai cách: giảng cho người Do thái và những người kính sợ Chúa trong các hội đường, và thuyết trình ở nơi công cộng cho những người qua đường. Việc thánh Phaolô thuyết trình ở nơi công cộng cũng giống cách thế các triết gia thời đó thường làm, họ rao giảng cho bất cứ ai họ gặp trên đường.
Vào thế kỷ I, trong đế quốc Rôma, có nhiều tôn giáo và giáo phái mới xuất hiện, đặc biệt là từ phương Đông. Đối với người nghe, xem ra thánh Phaolô đang muốn giới thiệu một tôn giáo mới, tập trung vào nhân vật tên là Giêsu.
Thánh Phaolô đã có diễn từ nổi tiếng ở đồi Arêôpagô là nơi gặp gỡ của giới trí thức Atêna. Bài nói chuyện của ngài khác với nhiều bài giảng khác cho người Do thái. Khi giảng cho người Do thái, Phaolô lập luận khởi đi từ Thánh Kinh. Còn khi nói chuyện với các triết gia Hi Lạp, ngài trình bày những lập luận triết học nhưng vẫn bám rễ trong Thánh Kinh. Đây là điều mà các Kitô hữu phải học hỏi, nghĩa là vận dụng những bằng chứng trong thế giới tự nhiên để trình bày về Thiên Chúa. Trong Thánh Kinh Cựu Ước, không thiếu thứ “thần học tự nhiên” này, vì thế cả người Do thái lẫn các Kitô hữu đều không thấy gì là mâu thuẫn giữa thần học tự nhiên và chân lý mạc khải trong Thánh Kinh.
Mặc dù Cv 17,16 ghi nhận là Phaolô “nổi giận vì thấy thành phố nhan nhản những tượng thần”, nhưng trong diễn từ ở Arêôpagô, Phaolô lại ca tụng dân Atêna là sùng đạo (17,22). Từ đó, ngài nhắc đến bàn thờ “kính thần vô danh” và giới thiệu cho họ “Đấng quý vị không biết mà vẫn tôn thờ” (17,23). Ở đây Phaolô tỏ ra là một nhà hùng biện có tài!
Rồi thánh Phaolô giới thiệu vị Thiên Chúa siêu việt: “Đấng làm Chúa tể trời đất, không ngự trong những đền do tay con người làm ra…không cần được bàn tay con người phục vụ như thể Ngài thiếu thốn gì” (17,24-25). Đồng thời, vị Thiên Chúa siêu việt ấy lại là Đấng nội tại: “Ngài không ở xa mỗi người chúng ta…chính trong Ngài mà chúng ta sống, cử động, hiện hữu” (17,28).
Vị Thiên Chúa ấy, con người có thể nhận biết nhờ lý trí tự nhiên và nhờ mạc khải: “may ra họ dò dẫm mà tìm thấy Ngài” (17,27). Thế nhưng sự phục sinh của Chúa Giêsu quả là điều hoàn toàn mới mẻ, cho cả người Do thái lẫn Hi lạp. Cho nên khi Phaolô nói đến sự sống lại thì “có kẻ nhạo cười, có kẻ nói: để khi khác chúng tôi sẽ nghe ông nói” (17,32).
Tuần 103: Sách Công vụ Tông đồ (chương 18 – 28)
THÀNH LẬP HỘI THÁNH Ở CÔRINTÔ (18,1-11)
Thánh Phaolô gặp ông Aquila và vợ ông là Priscilla ở Côrintô, đôi vợ chồng được ngài gọi là “những người cộng tác để phục vụ Đức Kitô Giêsu, đã liều mất đầu để cứu mạng tôi” (Rm 16,3-5). Cùng với những người Do thái khác, hai vợ chồng đã bị nhà vua trục xuất khỏi Rôma. Họ cùng làm một nghề với Phaolô, nghề dệt lều, nên ngài ở lại nhà họ và cùng làm việc. Phaolô thường nhấn mạnh: “những gì cần thiết cho tôi và cho những người sống với tôi, thì đôi tay này tự cung cấp” (Cv 20,33-35).
Khi Sila và Timôthê từ Macêđônia tới thì tình hình thay đổi vì thánh Phaolô có thể dành trọn thời giờ cho việc rao giảng. Trong thư 2 Cor 11,8-9, thánh Phaolô đã nói với dân Côrintô rằng: “Hồi ở giữa anh em, những khi lâm cảnh túng thiếu, tôi đã chẳng phiền lụy ai, vì các anh em từ Macêđônia đến đã cung cấp đầy đủ những gì tôi cần”. Nhờ đó, thánh Phaolô có thể hiến trọn thời giờ cho việc rao giảng, “long trọng làm chứng cho người Do thái biết rằng Đức Giêsu chính là Đấng Kitô” (Cv 18,5). Ở thời nào và ở bất cứ đâu, người Kitô hữu có thể cộng tác vào việc loan báo Tin Mừng bằng nhiều cách, một trong những cách đó là giúp đỡ các sứ giả Tin Mừng về tinh thần cũng như vật chất.
Vì dân Côrintô chống đối lời rao giảng của Phaolô và vì họ nói lộng ngôn, nên ngài nói với họ hai điều (18,6). Một là “máu các ngươi cứ đổ xuống trên đầu các ngươi”; câu này nhắc lại lời trong Ezekiel 33,4 và Phaolô còn nhắc lại trong diễn từ từ biệt (Cv 20,26). Hai là “từ nay trở đi, tôi sẽ đến với người ngoại”. Trong sách Công Vụ, Phaolô đã nói điều này 3 lần: 13,51; 18,6; 28,25-28; hàm nghĩa một khẳng định quan trọng. Tuy nhiên, ngài không rời Côrintô ngay mà dọn đến ở nhà ông Titô Giustô, một người ngoại kính sợ Thiên Chúa. Ngài cũng đã cải hóa Crispô là trưởng hội đường cùng với cả nhà ông. Như thế, người Do thái vẫn tiếp tục là thành phần quan trọng trong Hội Thánh.
Cv 18,9-10, kể lại thị kiến, trong đó Chúa Giêsu hiện đến và nói với Phaolô: “Đừng sợ. Cứ nói đi, đừng làm thinh, vì Thầy ở với con, không ai làm hại con được”. Một lời đầy an ủi. Chúa Kitô phục sinh luôn hiện diện và đồng hành với các môn đệ Người trên đường loan báo Tin Mừng.
DIỄN VĂN TỪ BIỆT CỦA THÁNH PHAOLÔ Ở ÊPHÊSÔ (20,17-38)
Thánh Luca cung cấp cho chúng ta hai diễn văn từ biệt: một là của Chúa Giêsu trong bữa Tiệc ly (Lc 22,15-38), hai là của thánh Phaolô ở Ephêsô (Cv 20,17-38). Những yếu tố chính trong bài từ biệt của thánh Phaolô là :
– Triệu tập các trưởng lão (20,17);
– Nói đến sứ mạng đã thực hiện: “Khi phục vụ Chúa, tôi đã hết lòng khiêm tốn, đã nhiều lần phải rơi lệ, đã gặp bao thử thách” (20,19);
– Chứng minh đã chu toàn nhiệm vụ: “Tôi đã không bỏ qua một điều gì có ích cho anh em (20,20), “Nếu có ai trong anh em phải hư mất thì tôi vô can” (20,26);
– Nhắc đến cái chết cận kề: “Thánh Thần khuyến cáo tôi rằng xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi” (20,23);
– Khuyến khích các trưởng lão chu toàn nhiệm vụ: “Hãy ân cần lo cho chính mình và toàn thể đoàn chiên mà Thánh Thần đã đặt anh em làm người coi sóc” (20,28);
– Cảnh giác về những nguy hiểm trong cộng đoàn: “Sẽ có những sói dữ đột nhập vào anh em, chúng không tha đàn chiên. Ngay từ giữa hàng ngũ anh em sẽ xuất hiện những người giảng dạy những điều sai lạc, hòng lôi cuốn các môn đệ theo chúng” (20,29-30);
– Chúc lành cho các trưởng lão: “Xin phó thác anh em cho Thiên Chúa và cho lời ân sủng của Ngài” (20,32);
– Cùng cầu nguyện với họ: “Phaolô cùng với tất cả anh em quỳ gối xuống cầu nguyện” (20,36);
– Giã từ.
Mục đích chính của diễn văn từ biệt là nêu cao hình ảnh người lãnh đạo như mẫu gương cho mọi người noi theo. Trong lời từ biệt của Chúa Giêsu (Lc 22), thánh Luca đã làm nổi bật điều đó khi Chúa Giêsu căn dặn nhóm Mười Hai: “Hãy làm việc này mà nhớ đến Thầy”. Ở đây cũng thế, thánh Phaolô được nêu cao như mẫu mực cho các giám mục và linh mục trong Hội Thánh. Họ phải phục vụ Thiên Chúa và đoàn chiên bằng những hi sinh cho công việc chung, giảng dạy giáo huấn chân chính, ân cần chăm sóc đoàn chiên. Họ không được tìm kiếm tư lợi và phải can đảm chống trả những tấn công từ bên ngoài cũng như bên trong.
Diễn văn từ biệt này cũng cho thấy tính liên tục trong đời sống Hội Thánh. Phaolô ra đi nhưng những người khác sẽ lãnh trách nhiệm tiếp nối. Các tông đồ qua đi nhưng những người kế vị sẽ tiếp nối. Hội Thánh hiện diện trong dòng lịch sử với những thay đổi qua từng thế hệ, nhưng mãi mãi vẫn là Hội Thánh Chúa Kitô.
Những lời từ biệt bao giờ cũng diễn tả mối quan tâm sâu xa nhất của người lãnh đạo. Trong lời từ biệt của Chúa Giêsu với các môn đệ, Người để lại cho chúng ta bí tích Thánh Thể, quyền lãnh đạo của Nhóm Mười Hai trong Hội Thánh, và ý nghĩa đích thực của lãnh đạo là phục vụ chứ không phải thống trị (x. Luca 22). Còn lời từ biệt của thánh Phaolô nhấn mạnh sự chăm sóc mục vụ cách tận tình, can đảm đối diện với bách hại và tà giáo, gìn giữ giáo lý chính thống của Chúa Giêsu trước sự lan tràn của lạc giáo.
LÀM CHỨNG CHO THẦY Ở RÔMA (27,1 – 28,31)
“Đáng lẽ có thể tha bổng người này, nếu ông ta đã không kháng cáo lên hoàng đế Cêsarê” (26,32). Vua Agrippa đã phát biểu như vậy. Do đó, sau khi phải ra trước Thượng Hội Đồng (Cv 22,30 – 23,10) rồi ra trước tòa Tổng trấn Rôma (24,10-21), rồi vua Agrippa (25,13 – 26,30), thánh Phaolô được đưa đi Rôma, đúng như lời Chúa nói với ngài: “Hãy vững lòng, con đã làm chứng cho Thầy ở Giêrusalem thế nào, thì con cũng phải làm chứng như vậy tại Rôma nữa” (23,11).
Trong hành trình đi Rôma, chuyến tàu gặp bão và bị đắm. Trình thuật này làm cho người đọc liên tưởng đến chuyện của tiên tri Giôna. Tuy nhiên giữa hai câu truyện, có những khác biệt. Vì không tuân theo lời Chúa truyền đi rao giảng cho dân Ninivê mà lại đi nơi khác, tiên tri Giôna đã gây sóng gió cho cả con tầu và thủy thủ đoàn, còn thánh Phaolô lại là cứu tinh của cả con tầu: “Tôi khuyên các bạn cứ can đảm, vì không ai trong các bạn phải mất mạng đâu, chỉ mất tầu thôi…” (27,22). Lời thánh Phaolô khích lệ mọi người trên tầu “Không ai trong các bạn sẽ mất một sợi tóc trên đầu” (27,34) làm vọng lại lời Chúa Giêsu trong Luca 12,7 và 21,18. Trình thuật cũng kể lại: “ông cầm lấy bánh, dâng lời tạ ơn Thiên Chúa trước mặt mọi người, bắt đầu bẻ ra và ăn” (27,35). Xem ra thánh Phaolô cử hành Thánh Thể dù những người ngoại giáo trên tầu không hiểu gì.
Như thế, khi tường thuật vụ đắm tầu, thánh sử Luca có ý nhắc lại lời hứa của Chúa Giêsu và bí tích Thánh Thể. Mục đích là để nhắc nhở các Kitô hữu rằng trong những sóng gió cuộc đời, chúng ta nên nhớ lại lời hứa của Chúa Giêsu mà vững tâm, và Thánh Thể là nguồn sức mạnh cho chúng ta giữa thử thách.
Con tầu dạt vào đảo Manta. Luca gọi những người dân trên đảo là barbaroi (có lẽ là tiền thân của những từ trong ngôn ngữ Âu châu mà người Việt Nam dịch là mọi rợ). Trong sách Công Vụ, Luca đã cho thấy phản ứng của người Do thái, Hi lạp, Rôma đối với thánh Phaolô ra sao. Ở đây là phản ứng của những người không thuộc số người trên. Họ đơn sơ, tâm thành, ít học. Ở đó, thánh Phaolô không giảng giải điều gì nhưng ngài thực thi tác vụ chữa lành và nhiều người kéo đến để được chữa lành (28,8-10).
Cuộc hành trình tiếp tục từ đảo Manta và cuối cùng đến Rôma. Sách Công Vụ ghi nhận: “Các anh em ở Rôma nghe tin chúng tôi tới thì đến tận chợ Appiô và Ba Quán để đón” (28,15). Như thế, Kitô giáo đã có mặt ở Rôma rồi và thánh Phaolô không phải là người sáng lập Hội Thánh ở đây. Khi gặp gỡ các kiều bào Do thái ở Rôma, thánh Phaolô nhấn mạnh với họ rằng ngài không phản bội dân tộc và truyền thống Do thái, dù chính người Do thái đã nộp ngài cho chính quyền Rôma. Ngài thuyết phục họ rằng vương quốc mà người Do thái mong chờ nay đã thành hiện thực. Ngài vận dụng Kinh Thánh Cựu Ước để chứng minh cho họ thấy những lời Thiên Chúa hứa nay được thể hiện trong Đức Kitô Giêsu. Nhưng cũng như ở những nơi khác, có người tin, có người không tin.
Tại Rôma, suốt hai năm, thánh Phaolô “rao giảng Nước Thiên Chúa và về Chúa Giêsu Kitô một cách rất mạnh dạn, không gặp ngăn trở nào” (28,31).
ĐGM. Phêrô Nguyễn Văn Khảm
Nguồn: WGPSG