Nữ ngôn sứ, một hiện tượng lạ trong Kinh Thánh Cựu Ước

Nữ ngôn sứ Debora

                                                                                         Môn học: Ngôn Sứ
 Giáo sư: Cao Gia An, S.J.
Học viên: Lê Cao Tài, S.J.

Trong bi cnh văn hóa và tôn giáo Do Thái trng nam khinh n, vic xut hin các n ngôn s là mt hin tượng l. Tác gi bài viết chưng dn nhng chng c trong Cu Ước cho thy tính tương phn gia mt thế gii quan xem thường người n vi uy tín, nh hưởng và tm quan trng ca các n ngôn s. Hin tượng l y mc khi dung mo ca Thiên Chúa, Đng vĩ đi và quyn năng, biến nhng điu không th thành ra có th, như li thánh Phaolô viết: nhng gì thế gian cho là điên di, thì Thiên Chúa đã chn đ h nhc nhng k hùng mnh (1 Cr 1:27)

Dn nhp

Trong các nền văn hóa và tôn giáo cổ xưa trên thế giới, người phụ nữ thường ít được xem trọng. Đặc biệt, trong những xã hội tiền phong kiến và phong kiến, quan niệm trọng nam khinh nữ càng rõ ràng, việc đàn ông có năm thê bảy thiếp là chuyện bình thường.Với các tôn giáo cũng vậy, phụ nữ thường không có vai trò quan trọng, nhất là trong việc tế tự, thậm chí họ còn bị coi là ô uế. Văn hóa và tôn giáo Do Thái thời Cựu Ước cũng không ngoại lệ, người phụ nữ không được xem trọng và phải phục tùng đàn ông. Không chỉ trong Kinh Thánh Cựu Ước, ngay cả vào thời Chúa Giê-su và các tông đồ, tác giả Kinh Thánh cũng đã diễn tả quan điểm của người thời đó về phụ nữ. Như trong phép lạ Chúa hóa bánh ra nhiều, phụ nữ và trẻ em không được tính: “S người ăn có ti năm ngàn đàn ông, không k đàn bà và tr con (Mt 14, 21) hoặc thư gửi ông Ti-mô-thê, thánh Phao-lô cũng đã trình bày quan điểm theo văn hóa thời đó, là người phụ nữ chỉ biết lắng nghe và phục tùng: “Khi nghe li dy d, đàn bà phi thinh lng và hết lòng phc tùng. Tôi không cho phép đàn bà ging dy, hay thng tr đàn ông, trái li h phi thinh lng(1 Tm 2, 11-12).

Nếu phụ nữ không có địa vị và giá trị trong văn hóa Do Thái, thì việc một phụ nữ trở thành ngôn sứ là điều hiếm hoi và lạ lùng, vì ngôn sứ là người công bố lời Thiên Chúa cho dân chúng, sửa dạy và dẫn dắt họ vượt qua những khó khăn trong hoàn cảnh hiện tại và loan báo kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Tuy nhiên, với não trạng trọng nam khinh nữ như vậy, liệu một nữ ngôn sứ có thể làm được gì? Họ đóng vai trò nào trong chức vụ của họ? Và động lực nào giúp họ vượt qua rào cản xã hội để dấn thân trong ơn gọi ngôn sứ của mình? Bài viết này cố gắng tìm hiểu thân phận người phụ nữ và về các nữ ngôn sứ trong Kinh Thánh Cựu Ước để trả lời cho những vấn nạn vừa nêu.

Như vậy, trước hết, chúng ta sẽ bàn về thân phận thấp hèn của người phụ nữ trong văn hóa, tôn giáo Do Thái trong Kinh Thánh Cựu Ước, để thấy những nổi thống khổ và khó khăn của người phụ nữ, qua đó, giúp ta hiểu rằng việc người phụ nữ trở thành ngôn sứ là điều vô cùng đặc biệt.

Thân phn thp hèn ca người ph n trong Cu Ước

Cựu Ước là thời kỳ tiền phong kiến và phong kiến, với chế độ đa thê, người đàn ông có quyền lấy nhiều vợ. Kinh Thánh Cựu Ước cho thấy E-sau có 3 người vợ, Gia-cóp: 2 vợ; En-ka-na: 2 vợ; Đa-vit: ít nhất 10 vợ; Re-ha-bô-am: 3 vợ; A-bi-gia: 14 vợ; Giê-hô-am, Gio-at, A-hab, Giê-hô-gia-kim: có rất nhiều vợ và đặc biệt Salo-mon có tới hơn 300 người vợ… Như vậy, so với những nền văn hóa khác như Trung Hoa, Ấn Độ, quan niệm của người Do-Thái về phụ nữ cũng chẳng khác gì mấy: người phụ nữ không được xem trọng, họ coi phụ nữ như là tài sản thuộc quyền sở hữu của đàn ông; phụ nữ còn bị coi là xấu xa, ô uế và họ không có quyền để quyết định số phận của mình.

Người ph n b coi như s hu ca đàn ông

Trong Kinh Thánh Cựu Ước có rất nhiều đoạn diễn tả quan niệm của người Do Thái về người phụ nữ. Phụ nữ chỉ chỉ được xem như là tài sản của người đàn ông mà thôi. Một người con gái khi chưa lập gia đình thì lệ thuộc vào người cha và khi lấy chồng thì nàng phải lệ thuộc vào người chồng của nàng. Nàng không được tự mình quyết định cho số phận riêng của mình.

– Khi thiếu n chưa có chng thì nàng thuc quyn s hu ca cha nàng.

Người thiếu nữ, khi chưa lấy chồng, không có quyền quyết định số phận của mình nhưng cha nàng sẽ là người quyết định số phận của nàng. Như trong trường hợp của ông Lót, ông không tìm cách khác để bảo vệ người khách của ông khỏi tay bọn biến thái ở thành So-dom mà lại chọn cách đưa hai đứa con gái còn trong trắng của mình cho người ta hãm hiếp:“Đây tôi có hai đa con gái chưa ăn vi đàn ông, tôi s đưa chúng ra cho anh em; anh em mun làm gì chúng thì làm, nhưng còn hai người này, xin anh em đng làm gì h, vì h đã vào tr dưới mái nhà tôi.” (St 19,8). Điều này cho thấy rằng ngay trong thời kỳ đầu của dân tộc Do Thái, người phụ nữ đã là sở hữu của người cha.

Cho đến thời Mô-sê, điều này được diễn tả rõ ràng hơn trong sách luật:“Khi mt người đàn ông gp mt cô gái chưa đính hôn, nm ly nàng và nm vi nàng, và h b bt gp, thì người đàn ông đã nm vi nàng phi np cho cha cô gái năm mươi thi bc; nàng s là v người y, bi l người y đã cưỡng hiếp nàng, và sut đi người y không th ry nàng (Đnl 22, 28-29).Trong luật này, người con gái không hề có tiếng nói, chỉ biết thinh lặng, chấp nhận để cha nhận tiền và phải cưới một người đã hãm hiếp mình làm chồng cho hết cuộc đời.

Nếu cha nàng không muốn cho nàng lấy người dụ dỗ nàng thì cha nàng cũng nhận được số tiền lớn hơn:“Khi có ai d d mt thiếu n chưa đính hôn và ăn nm vi nàng, thì phi tr tin cưới cho gia đình nàng. Nàng s thành v người đó. Nếu cha nàng nht đnh không chu g, người y s phi np mt s tin tương đương vi tin cưới mt người con gái. (Xh, 22,15-16) và nàng sẽ bị mang tiếng là con gái mất trinh. Càng không công bằng hơn khi người con gái ấy đi lấy người khác, khi anh ta phát hiện nàng không còn trinh tiết nữa thì nàng có thể bị đem đi tử hình, như trong sách Đệ Nhị Luật cho thấy: “nếu người ta không tìm thy nơi cô gái nhng du chng t cô còn trinh, thì h s lôi cô gái ra ca nhà cha nàng; người trong thành ca nàng s ném đá nàng cho chết và nàng s phi chết, vì nàng đã làm điu đi bi trong Ít-ra-en, khi làm điếm trong nhà cha mình (Đnl 22,20-21). Cô ta bị tử hình là vì cô đã làm mất danh dự của người cha chứ không phải vì hành vi gian ác nào đó. Điều này có nghĩa là danh dự của người cha còn cao hơn cả mạng sống của một người con gái. Còn khi người đàn ông làm mất danh dự của phụ nữ, khi lấy nàng về làm vợ mà nghi ngờ nàng không còn trinh tiết rồi tố cáo nàng, nhưng nàng thật sự đã không hề mất trinh tiết, thì người đó chỉ bị sửa phạt và phải nộp tiền phạt cho cha của nàng: “Các kỳ mc trong thành s bt người chng và sa pht: h s bt người y np pht mt trăm thi bc, và s trao s bc đó cho người cha cô gái, vì người y đã bôi xu danh d ca mt trinh n Ít-ra-en. Nàng s là v người y và sut đi người y không th ry nàng(Đnl 22,18-19) và nàng lại phải tiếp tục sống với người đó trong nỗi tủi nhục.

  • Khi mt thiếu n ly chng, nàng s tr thành s hu ca chng nàng

Đọc câu chuyện kể về nguyên nhân cuộc chiến tranh giữa Ít-ra-en và chi tộc Ben-gia-min (sách Thủ Lãnh chương 19), ta mới thấy sự dã man của đàn ông khi đối xử với phụ nữ, nhất là người đàn ông Lê-vi được gọi là chồng của nàng. Khi ông ta và vợ đi đường xa không có chỗ trọ thì một cụ già đã đón họ về nhà cụ. Nhưng khi đón khách vào nhà, những người trong thành lại vây quanh nhà, đòi làm điều đồi bại với người khách. Cụ già không thể làm gì để bảo vệ người khách Lê-vi này nên đã muốn hiến người con gái còn trinh của cụ và vợ của người đàn ông kia cho họ hãm hiếp. Cuối cùng, người đàn ông Lê-vi này đã đưa chính người vợ của mình cho họ cưỡng hiếp: “Chúng cưỡng hiếp nàng sut đêm cho ti sáng, và lúc rng đông mi buông tha. (Tl 19, 25). Đến sáng, người phụ nữ trở về nhà trọ với thân tàn ma dại và gục chết trước cửa nhà. Sau đó, người đàn chặt nàng ra thành mười hai mảnh rồi gửi đi khắp thành phố Ít-ra-en(Tl 19,16-30). Trong câu chuyện này, người phụ nữ không hề có một tiếng nói nào, tất cả mọi quyết định đều tùy thuộc vào người chồng, ngay cả với mạng sống của họ.

Trong sách luật Do-thái cũng không có chỗ nào cho phép người phụ nữ viết đơn li dị chồng, chỉ có người chồng mới có quyền viết đơn li dị vợ mình mà thôi.“Nếu mt người đàn ông đã ly v và đã ăn vi nàng ri, mà sau đó nàng không đp lòng người y na, vì người y thy nơi nàng có điu gì chướng, thì s viết cho nàng mt chng thư ly d, trao tn tay và đui ra khi nhà. Ra khi nhà người y, nếu nàng đi ly chng khác, mà người chng sau li ghét b nàng, viết cho nàng mt chng thư ly d, trao tn tay và đui ra khi nhà” (Đnl 24,1-3).Người phụ nữ không hề có danh phận trong luật Do-Thái. Người vợ sống là để rạng danh chồng, rạng danh dòng họ của chồng, và không thể tự quyết định cho số phận của mình như trong luật sinh nối dõi cho chồng mình. Người phụ nữ buộc phải lấy anh em của chồng mình khi chồng cô qua đời: “Khi có nhng anh em chung vi nhau, và mt trong nhng người đó chết mà không có con trai, thì v ca người chết không được ly mt người xa l, ngoài gia đình; mt người anh em chng s đến vi nàng, ly nàng làm v và chu toàn bn phn ca mt người anh em chng đi vi nàng. Đa con đu lòng nàng sinh ra s duy trì tên ca người anh em đã chết; như vy tên ca người chết s không b xoá khi Ít-ra-en (Đnl 25,5-6).

Khi một người đàn ông gặp một phụ nữ có chồng và quan hệ với nàng trong hoặc ngoài thành thì người đàn ông đó phải bị xử tử, không phải vì người đàn ông đó đã hãm hại người phụ nữ nhưng vì người đàn ông đó đã xâm phạm đến quyền sở hữu của người chồng cô ta (Đnl 22,23-29). Có lẽ điều răn thứ mười trong sách Xuất hành cũng đã chịu ảnh hưởng của bởi quan niệm xem phụ nữ như tài sản sở hữu của người chồng cũng giống như những thứ khác: “ngươi không được ham mun nhà người ta, v người ta, tôi t nam n, con bò con la hay bt c vt gì ca người ta (Xh 20,17).

Người ph n b coi là xu xa, ô uế và thp hèn

Có lẽ tư tưởng xem người phụ nữ là xấu xa, là kẻ cám dỗ xuất phát từ lúc khởi nguyên, trong trình thuật sáng tạo, khi A-đam đổ lỗi cho người phụ nữ là đã dụ dỗ ông ăn trái cấm: “Con người thưa: Người đàn bà Ngài cho vi con, đã cho con trái cây y, nên con ăn(St 3,12).Tư tưởng này hình như đã ăn sâu vào suy nghĩ của người Do-Thái, nên trong sách Huấn Ca, tác giả đã nói về phụ nữ như là nguồn gốc của tội với giọng văn cay nghiệt:“Ti bt đu có là do đàn bà,và cũng ti đàn bà mà tt c chúng ta phi chết (Hc 25,24). Cũng trong sách này, một số đoạn khác cũng cho thấy lối nhìn của tác giả về người phụ nữ thật tiêu cực, đầy dèm pha: “Không vết thương nào sánh ni vết thương lòng, (không s d nào bng s d do đàn bà gây nên) không đc ác nào bng đc ác ca người ph n (Hc 25,13) và“Mi gian ác đu chng thm vào đâu so vi gian ác ca người đàn bà; th s phi chu s phn ca phường ti li(Hc 25,19); hơn nữa: “Trước bt c ai, đng chăm chú nhìn vào sc đp, cũng đng ngi chung vi bn đàn bà. Vì cũng như áo qun có rn,đàn bà có th gian ác ca đàn bà. Đàn ông gian ác hơn đàn bà tt bng, vì đàn bà trơ trn đưa đến nhc nhn” (Hc 42, 12-14). Khi tác giả nói rằng “đàn ông gian ác hơn đàn bà tốt bụng” thật là một lời thậm xưng, nó còn là lời vu khống cho phụ nữ. Vì trong lịch sử nhân loại, sự tàn ác, giết chốc, chiến tranh… đều đến từ những người đàn ông. Điển hình nhất là khởi đầu của lịch sử nhân loại, sự ác xuất phát từ người đàn ông mà Kinh Thánh đã cho thấy Ca-in đã giết Aben, em mình.

Hơn thế nữa, Kinh Thánh Cựu Ước còn xem phụ nữ là ô uế, nhơ nhớp. Theo quy luật tự nhiên, một người phụ nữ không thể tránh khỏi chu kỳ kinh nguyệt và việc sinh nở. Nhưng đối với luật Mô-sê, thời kỳ kinh nguyệt là thời kỳ ô uế nhất của người phụ nữ[1], ngay cả khi người khác đụng vào họ hay đụng vào những đồ dùng của họ, người đó cũng ra ô uế: “Khi mt người đàn bà ra huyết, huyết t thân th chy ra, thì nó s ra ô uế by ngày vì có kinh. Bt c ai đng vào nó, s ra ô uế cho đến chiu. Mi cái gì nó nm khi có kinh, s ra ô uế, mi đ vt nó ngi lên, s ra ô uế. Bt c ai đng vào giường ca nó, s phi git áo, ly nước mà tm ra, và s ra ô uế cho đến chiu. Bt c ai đng vào đ vt nó đã ngi lên, s phi git áo, ly nước mà tm ra, và s ra ô uế cho đến chiu. Nếu có cái gì trên giường hoc trên đ vt nó đã ngi lên, thì ai đng đến cái đó, s ra ô uế cho đến chiu (Lv 15,19-23). Khi người phụ nữ sinh con thì cũng bị ô uế và sinh con gái thì bị ô uế gấp hai lần khi sinh con trai: “Khi mt người đàn bà có thai và sinh con trai, thì s ra ô uế trong vòng by ngày, nó s ra ô uế như nhng ngày b khó vì kinh nguyt. Đến ngày th tám, đa tr s được ct bì nơi da quy đu. Ri người đàn bà phi đi ba mươi ba ngày cho máu được thanh ty; nó không được đng đến vt thánh nào và không được vào thánh đin, cho đến khi mãn thi gian thanh ty ca mình. Nếu sinh con gái, thì người đàn bà s ra ô uế trong vòng hai tun, như khi có kinh; ri nó phi đi sáu mươi sáu ngày cho máu được thanh ty (Lv 12,2-5).Có thể nói, cuộc đời người phụ nữ có rất ít thời gian trong tình trạng trong sạch nên có lẽ dưới mắt người Do-thái, phụ nữ luôn là ô uế.

Có lẽ vì tư tưởng xem phụ nữ là nguồn gốc của sự gian ác, xấu xa, và luôn bị ô uế mà người Do-thái đã hạ thấp địa vị và phẩm giá của họ. Một điều rất rõ ràng là chỉ đàn ông mới có tên tuổi trong sổ sách thống kê dân số, người phụ nữ chỉ là những người phụ thuộc. Như trong sách dân số, con trai mới được liệt kê vào sổ: “Hãy kim tra con cái Lê-vi theo gia tc và th tc, tt c đàn ông con trai tui t mt tháng tr lên, hãy ghi s.” (Ds 3,5). Nếu phụ nữ là người hầu thì thật khốn đốn, họ sẽ không bao giờ được nói lên tiếng nói của mình. Người chủ có quyền hoàn toàn trên họ. Họ không có quyền quyết định số phận của mình, thậm chí họ có thể bị ép phải ăn ở với chủ mình và cũng có thể bị đuổi đi lúc nào không biết, như trường hợp của nàng hầu Haga (St 16, 1-6). Hơn nữa, trong sách dân số, khi Mô-sê đánh thắng quân Ma-đi-an và chiếm lấy những chiến lợi phẩm như chiên, dê, bò lừa … và phụ nữ cũng được liệt kê vào trong những chiến lợi phẩm đó: “Ông Mô-sê và tư tế E-la-da làm như ĐC CHÚA đã truyn cho ông Mô-sê. Nhng ca đot được, nhng phn còn li ca chiến li phm mà các người tham chiến đã chiếm ly, là 675.000 chiên dê, 72.000 bò bê, 61.000 con la, và nhân mng, tc là nhng ph n chưa ăn vi đàn ông, tt c là 32.000 người” (Ds 31,31-35). Một dẫn chứng khác cho thấy phụ nữ bị đối xử thật bất công. Trong khi người đàn ông ăn ở với người phụ nữ không phải là vợ mình, thậm chí với kỹ nữ vẫn không bị xem là có tội, thì người phụ nữ lại bị xử tử vì làm kỹ nữ hoặc ăn nằm với một người đàn ông khác không phải chồng mình, như trong chuyện của ông Giu-đa và con dâu là Ta-ma: “Khong ba tháng sau, người ta báo cho ông Giu-đa rng: Ta-ma, con dâu ông, đã đi làm điếm; nó còn có thai vì làm điếm na! Ông Giu-đa nói: Lôi nó ra mà thiêu sng! “ (St 38,24).

Có thể vì quan niệm người phụ nữ ô uế và thấp kém như vậy mà trong phụng tự Do Thái phụ nữ cũng không có chỗ đứng trong đền thờ, phụ nữ không được đọc hay nói trong hội đường và trong đền thờ. Đền thờ Do Thái thời Cựu Ước cho đến thời Chúa Giê-su vẫn luôn có sự phân biệt phái tính và giai cấp trong các hoạt động tôn giáo. Ở bên ngoài đền thờ là hành lang dành cho người ngoại, sân tiếp theo là sân giới hạn dành cho phụ nữ. Bên trong là sân dành cho những người nam Do Thái rồi đến sân dẫn đến Nơi Thánh dành riêng cho các thầy tế lễ, sau là Nơi Thánh và cuối cùng là Nơi Chí Thánh. Thật vậy, sách Lê-vi có nói thêm chi tiết là sau khi mãn thời gian thanh tẩy, người phụ nữ sẽ đền đền thờ làm lễ toàn thiêu và lễ xá tội, nhưng chỉ được đứng bên ngoài cửa lều: “Khi mãn thi gian thanh ty, dù sinh con trai hay con gái, nó phi đem đến cho tư tế, ca Lu Hi Ng, mt con chiên mt tui làm l toàn thiêu, và mt b câu non hay mt chim gáy làm l t ti.7 Tư tế s tiến dâng chúng trước nhan ĐC CHÚA và c hành l xá ti cho nó và nó s được thanh ty sau khi đã xut huyết (Lv 12,6-7).

 

Các n ngôn s, mt hin tượng l trong Kinh Thánh Cu Ước

Theo quan điểm và luật lệ của người Do Thái trong Cựu Ước, vị trí người phụ nữ rất thấp kém, họ không tự quyết định số phận của mình, sao họ lại có thể trở thành ngôn sứ, là người nói  Lời Thiên Chúa và là người quyết định số phận cho nhiều người, thậm chí là cho cả dân tộc được? Đó là một điều kỳ lạ xảy ra với ba người phụ nữ mà ta sẽ đề cập dưới đây. Họ được sách Thánh gọi là nữ ngôn sứ, là người của Thiên Chúa.

Các n ngôn s trong Cu Ước

Trong Cựu Ước, Kinh Thánh đề cập tới ba người phụ nữ và được gọi là ngôn sứ, đó là nữ ngôn sứ Mi-ri-am, nữ ngôn sứ Đơ-vô-ra và nữ ngôn sứ Khun-đa.

  • N ngôn s Mi-ri-am (Xh 15,20)

Bà Mi-ri-am thuộc chi tộc Lê-vi, con gái của ông Am-ram và bà Giô-khe-vết. Bà là chị của một nhân vật nổi tiếng trong lịch sử Do Thái là Mô-sê và là em của A-ha-ron (x. Xh 15,20). Khi còn nhỏ, Mi-ri-am là một đứa con ngoan ngoãn, vâng lời mẹ, thương em; Mi-ri-am chính là một cô bé kiên nhẫn, khôn ngoan, lanh lợi đã giới thiệu người vú nuôi người Hip-ri, cũng chính là mẹ mình cho công Chúa Ai-Cập (Xh 2,4-8). Bà Mi-ri-am cùng với A-ha-ron là cánh tay đắc lực hỗ trợ Mô-sê trong hành trình dẫn dắt dân băng qua sa mạc 40 năm. Sau khi vượt Biển Đỏ khô chân, bà Mi-ri-am là người hướng dẫn phụ nữ trong việc ca hát thờ phượng Chúa. Bà viết những bài hát ca ngợi Chúa qua cuộc chiến thắng khải hoàn tiêu diệt quân Ai-Cập trong lòng biển: “N ngôn s Mi-ri-am, em ông A-ha-ron, cm ly trng; mi ph n theo bà đi ra, đánh trng và nhy múa.21 Bà Mi-ri-am xướng lên rng:Hãy hát mng ĐC CHÚA, Đng cao c uy hùng, k binh cùng chiến mã, Người xô xung đi dương” (Xh 15,20-21). Trong Kinh Thánh, chỉ có bà là người phụ nữ duy nhất được vào trong Lều Hội Ngộ (x. Ds 12,4). Bà cũng là người ph n duy nht được nêu danh trong gia ph vi tư cách là mt người con Tên người v ca Am-ram là Giô-khe-vét, con gái ông Lê-vi, ông đã sinh bên Ai-cp. Bà đã sinh cho ông Am-ram: A-ha-ron, Mô-sê và người em gái là Mi-ri-am (Ds 26,59). Kinh thánh cũng nhắc đến ngày qua đời của bà: “Toàn th cng đng con cái Ít-ra-en đến sa mc Xin vào tháng giêng, và dân li Ca-đê. Bà Mi-ri-am đã qua đi và được chôn ct ti đây (Ds 20,1). Tất cả những điều này chứng tỏ rằng Bà Mi-ri-am rất quan trọng trong sứ mạng của Mô-sê. Mặc dù bà đã phạm tội trước nhan Đức Chúa và Chúa đã phạt bà bị bệnh phong và cũng chính Chúa đã chữa lành cho bà. Từ đó, bà tiếp tục giúp đỡ Mô-sê phục vụ cho sứ mạng của Chúa. Chúa đã đặt bà làm ngôn sứ để đứng bên cạnh nâng đỡ Mô-sê trong lúc khó khăn cũng như trong giờ phút vinh quang và chia sẻ với Mô-sê hy vọng tươi sáng về một vùng đất hứa mà Chúa sẽ ban cho dân tộc Ít-ra-en.

  • N ngôn s Đơ-vô-ra (Tl 4, 4-10)

Trong sách thủ lãnh có kể về một nữ ngôn sứ khác, đó là bà Đơ-vô-ra. Bà mạnh mẽ oai hùng. Bà là một nhà lãnh đạo có đầy uy thế không phải vì tài năng và sức riêng của mình mà do bà có Đức Chúa ở cùng. Những gì bà nói, ra lệnh là những lời bà nghe được nơi Đức Chúa. Vì thế, bà được gọi là ngôn sứ và nắm quyền xét xử con cái Ít-ra-en trên núi Ép-ra-im: “Bà Đơ-vô-ra, mt n ngôn s, v ông Láp-pi-đt, thi y làm th lãnh xét x Ít-ra-en.5 Bà ngi x dưới Cây Chà Là Đơ-vô-ra, gia Ra-ma và Bết Ên, trên núi Ép-ra-im, và con cái Ít-ra-en đến vi bà đ bà xét x cho (Tl 4,4-5). Câu chuyện nổi tiếng của bà là cuộc chiến oai hùng đưa dân tộc Ít-ra en thoát khỏi ách thông trị của Ga-vin, vua Ca-na-an. Một người đàn bà mạnh mẽ và can đảm nhờ vào sức mạnh của Đức Chúa, trong khi vị tướng Ba-rắc chỉ huy mười ngàn quân lại rụt rè, sợ hãi trước chín trăm xe sắt của tướng Xi-xơ-ra, người Ca-na-an. “Ông Ba-rc nói vi bà: Nếu bà đi vi tôi thì tôi đi, nếu bà không đi vi tôi thì tôi không đi.9 Bà tr li: Chc chn tôi s đi vi ông. Có điu là trong chuyến đi này, vinh d không thuc v ông, vì ĐC CHÚA s trao Xi-xơ-ra vào tay mt người đàn bà” (Tl 4,9). Cuộc chiến này đã đập tan ách thống trị của vua Ca-na-an trên dân tộc Ít-ra-en; và lãnh thổ Ít-ra-en được bình an trong 40 năm.

  • N ngôn s Khun-đa (2V 22,14-20)

Sau triều đại của Vua Mơ-na-sê và A-Môn, được xem là hai bị vua vô đạo đức nhất của Giu-đa, thời kỳ đân tộc Ít-ra-en hoàn toàn phản bội Thiên Chúa: “vua đã xây các tế đàn kính toàn th các thiên binh. Vua làm l thiêu con trai mình, làm ngh chiêm tinh và phù thu, lp ra cô đng và thy bói; vua làm nhiu điu d trái mt ĐC CHÚA đ trêu gin Người(2V 21,6), một người phụ nữ khác xuất hiện với danh hiệu là ngôn sứ. Đó là nữ ngôn sứ Khun-đa, thời vua Giô-si-gia. Trong thời điểm này có rất nhiều ngôn sứ nổi lên như: ngôn sứ Xô-phô-ni-a, Na-khun, Kha-ba-cúc, Giê-rê-mi-a, nhưng có một điều rất lạ là vua Giô-si-gia sai các tư tế và ký lục lại đi tìm gặp một người phụ nữ để thỉnh ý Đức Chúa: “Tư tế Khin-ki-gia-hu, các ông A-khi-cam, Ác-bo, Sa-phan và A-xa-gia đi gp n ngôn s Khun-đa, v người ph trách phòng l phc là ông Sa-lum, con ông Tích-va; cháu ông Khác-khát; bà ti khu vc ph thuc thành Giê-ru-sa-lem (2 V 22,14). Nữ ngôn sứ này đã nói Lời Đức Chúa, và đã làm thay đổi cả dân tộc Giu-đa, từ kẻ phản bội Đức Chúa chuyển sang thờ phượng và trung thành với Đức Chúa. Vì sau khi nghe lời từ miệng ngôn sứ Khun-đa, các tư tế và ký lục đã về tâu lại với vua Giô-si-gia, vua đã yêu cầu toàn dân nghe đọc sách luật của Đức Chúa và“cam kết đi theo Đức Chúa, hết lòng hết dạ tuân giữ các mệnh lệnh, chỉ thị và quy tắc của Người” (2 V 23,3).

Mt hin tượng l trong Kinh Thánh Cu Ước

Qua hình ảnh của ba người phụ nữ, ba nữ ngôn sứ, được trình bày ở trên, ai cũng có thể thấy có một điều gì đó lạ thường ở đây. Thông thường người phụ nữ Ít-ra-en phải tùy thuộc vào đàn ông, không có quyền quyết định cho số phận của mình; người phụ nữ không hề có tiếng nói trong hội đường và những nơi công cộng khác; phụ nữ thường bị xem là ô uế khi đến thời kỳ kinh nguyệt hay khi sinh nở, ngay cả những người khác khi đụng vào cũng bị lây nhiễm uế… Nhưng ở đây, ba nữ ngôn sứ này đều có vai trò quyết định số phận của dân tộc Ít-ra-en.

Nữ ngôn sứ Mi-ri-am lãnh đạo các phụ nữ hát ca ngợi khen Đức Chúa và cùng với A-ha-ron giúp Mô-sê lãnh đạo dân Chúa thoát khỏi ách thống trị của Ai-cập và đưa dân qua sa mạc 40 năm trường. Đây là trường hợp đặc biệt trong Cựu Ước vì theo lẽ thông thường, trong văn hóa Do Thái, người phụ nữ không thể nào có vị trí đặt biệt như vậy.

Chiến thắng của nữ ngôn sứ Đơ-vô ra, đồng thời là thủ lãnh của dân tộc Ít-ra-en thời đó, có lẽ là hiện tượng có một không hai trong dòng lịch sử Ít-ra-en vì sẽ khó ai giải thích được rằng với quan niệm của người Do-Thái về phụ nữ như được trình bày ở trên, thì làm sao dân Do-Thái lại có thể để cho một người phụ nữ làm thủ lãnh của mình được?

Trong câu chuyện về nữ ngôn sứ Khun-đa, bà là người rất có ảnh hưởng, đến nỗi các tư tế và ký lục phải đến tham vấn bà để biết ý Đức Chúa và vua Giô-si-gia phải nghe theo lời bà, ông đã đưa toàn bộ Ít-ra-en quay về với Đức Chúa sau bao nhiêu năm dân phản nghịch với Ngài. Thật là điều khó hiểu! Bà chứng tỏ cho thấy phụ nữ cũng có thể biết ý Đức Chúa và nói Lời của Đức Chúa.

Những điều lạ thường đó xảy ra, như chúng ta đã thấy, chứng tỏ rằng không phải tự sức mình mà những người phụ nữ với thân phận thấp hèn có thể làm nên những điều vĩ đại như thế, chỉ có bàn tay Thiên Chúa mới có thể nâng cao những người hèn kém như trong Thánh Vịnh 113 có nói: “K mn hèn, Chúa kéo ra khi nơi cát bi; ai nghèo túng, Người ct nhc t đng phân tro,đt ngi chung vi hàng quyn quý, hàng quyn quý dân Người (TV 113,7-8) và Thiên Chúa không hề bị giới hạn bởi bất cứ luật lệ nào của con người. Ngôn sứ là người do chính Thiên Chúa chọn và không ai có quyền chống lại dù cho họ ở bất cứ địa vị nào và chính họ cũng không thể làm trái lệnh Thiên Chúa, như trong sách Đệ Nhị Luật, Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: “T gia anh em ca chúng, Ta s cho xut hin mt ngôn s như ngươi đ giúp chúng, Ta s đt nhng li ca Ta trong ming người y, và người y s nói vi chúng tt c nhng gì Ta truyn cho người y. K nào không nghe nhng li ca Ta, nhng li người y nói nhân danh Ta, thì chính Ta s hch ti nó. Nhưng ngôn s nào c gan nhân danh Ta mà nói li Ta đã không truyn cho nói, hoc nhân danh nhng thn khác mà nói, thì ngôn s đó phi chết” (Đnl 18, 17-20).

Kết Lun:

Đối với những tôn giáo khác, việc những người phụ nữ được tôn vinh qua những huyền thoại như những nữ thần là chuyện bình thường. Nhưng đối với Do Thái Giáo, không hề có thần nào ngoài Thiên Chúa. Những nữ ngôn sứ được đề cập đến ở trên là những người nữ bình thường, họ có nơi xuất thân và cuộc đời của họ được ghi vào sử sách, chứ họ không phải là những người được thần thánh hóa như các vị thần của các tôn giáo khác. Họ được nổi bật là vì trong dòng lịch sử, văn hóa trọng nam khinh nữ nhưng họ lại được tín nhiệm một cách lạ thường. Điều lạ thường đó chứng tỏ Thiên Chúa vĩ đại và quyền năng vì Ngài có khả năng biến những điều không thể thành có thể. Thiên Chúa cho dòng dõi Ít-ra-en đông đúc, xuất phát từ một cặp vợ chồng hiến muộn, già nua là ông Ap-ra-ham và bà Sa-ra; Ngài chọn một người ngọng nghịu, không biết ăn nói, như Mô-sê, làm người lãnh đạo xuất chúng của Dân tộc Ít-ra-en qua mọi thời; Ngài cho Đa-vít, một cậu bé chăn cừu để chiến thắng Go-li-át tướng của người Phi-li-tinh và trở thành vị vua vĩ đại của dân tộc Ít-ra-en… Và đặc biệt hơn cả, Thiên Chúa đã chọn một phụ nữ bình dân làm Mẹ của Đấng Cứu Thế, đó là Mẹ Ma-ri-a, vì “Đi vi Thiên Chúa, không gì là không th làm đươc(Lc 1:37).

Như vậy, chính Thiên Chúa đã tôn trọng và tín nhiệm người phụ nữ như vậy thì không có lý do nào mà con người lại có thể khinh chê người phụ nữ, xem họ là những người thấp hèn và sử dụng họ như những công cụ giải trí như vẫn thường xảy ra trong thế giới ngày nay. Với thông điệp này, những người tín hữu phải là người đi đầu trong công cuộc bảo vệ quyền lợi cho người phụ nữ và tôn trọng họ như chính Thiên Chúa tôn trọng họ.

[1] Tại sao người Do Thái có quan niệm này, các tác giả giải thích điều này như thế nào?

Nguồn: sjjs.edu.vn