Thư Gửi Những Nhà Truyền Giáo S.S.P

Trụ Sở ngày 17/10/2020.

Các Anh Kính Mến,

Nhân dịp cử hành ngày lễ Chúa Nhật truyền giáo, em xin gửi đến các anh – những nhà truyền giáo đầy can đảm, nhiệt huyết những lời chia sẻ tràn đầy tình huynh đệ và tình yêu thương trong Đức Kitô và Mẹ Maria.

Lời đầu tiên, cho phép em gửi tới các anh lời chào phát xuất từ tận đáy lòng và trái tim của em. Đối với em, các anh không những là người đi trước, là người huynh đệ mà còn là tấm gương sáng ngời để em noi theo trên bước đường ơn gọi của những nhà truyền giáo.

Các anh ơi, những ngày vừa qua ngồi trong căn phòng nhỏ bé nơi Sài Gòn hoa lệ, đôi lúc em nghĩ tới sứ mệnh truyền giáo của Hiệp Hội, em nghĩ tới bản thân mình và nghĩ tới các anh. Có lẽ, chính những suy nghĩ đó cùng dịp lễ Chúa Nhật truyền giáo đã thôi thúc em viết những lời chia sẻ này, đây là một món quà nhỏ bé của em, một món quà vô giá về tinh thần mà em muốn trao tặng cho các anh.

Trước tiên, với tư cách là một thành viên của Hiệp Hội Thánh Phaolô Tông Đồ Dân Ngoại, là một người em, em xin được nói lời cảm ơn tới Chúa và các anh. Em cảm ơn Chúa vì chính Chúa đã gửi các anh đến với em trong ơn gọi của nhà dòng. Nhờ có các anh, em cảm thấy mình không bao giờ cô độc, lẻ loi dù trong con mắt người đời, đi tu là một điều dại dột. Em cảm ơn các anh vì các anh là những người đi trước, là những người truyền lại cho em những kinh nghiệm quý báu của ơn gọi thiên triệu. Nếu không có các anh, em sẽ là một con người yếu đuối, kém cỏi cả về thể xác lẫn tinh thần. Nếu không có các anh, em sẽ trở nên yếu kém về mặt đức tin, ơn gọi của em vì thế cũng không thể đứng vững trước mọi sóng gió và thử thách. Vì thế, trong suy nghĩ của em, các anh chính là nền tảng, là trụ cột để từ đó em xây dựng và phát triển ơn gọi của mình. Tóm lại, nhờ có sự hiện hữu của các anh mà cuộc đời trở nên ý nghĩa hơn, các anh chính là nguồn an ủi và nguồn động lực mà Chúa gửi đến cho em. Một lần nữa, em cảm ơn các anh rất nhiều. Các anh biết không? Em rất hay đọc các bài thơ, các tác phẩm văn chương và những lời danh ngôn. Em rất thích một câu khuyết danh, đó là: “Chúng ta đều là những thiên thần chỉ có một cánh, và chúng ta phải ôm lấy lẫn nhau để học bay”. Ở một góc độ nào đó của đức tin, em tin rằng, em và các anh cũng giống như các vị thiên thần, bởi chúng ta cũng phải phục vụ và ca ngợi Thiên Chúa như các ngài, chúng ta cũng là các thụ tạo của Thiên Chúa như các ngài. Tuy nhiên, những vị thiên thần đó có hai cánh, còn chúng ta bất toàn hơn những vị thiên thần, vì thế mà câu nói đó cho rằng chúng ta chỉ có một chiếc cánh và phải giúp đỡ nhau để tiến về phía trước. Trong đời tu, các anh giúp đỡ em, các anh cho em có kinh nghiệm sống, vốn sống để em lớn mạnh trong ơn gọi của Chúa. Và cũng trong đời tu, em sẽ giúp đỡ các anh bằng những lời cầu nguyện, bằng những lời động viên mạnh mẽ. Qua câu khuyết danh trên, em thấy rằng Chúa đã cho các anh và em một ơn gọi đặc biệt khác: ơn gọi giúp đỡ và đùm bọc lẫn nhau trong tình yêu thương của Đức Kitô. Vì lẽ đó, em hy vọng bức thư này sẽ là sự khích lệ cho các anh nơi những điểm truyền giáo.

Tiếp đến, ở vị trí là một tu sinh, em ngưỡng mộ các anh bởi sự dũng cảm và lòng nhiệt thành của các anh. Các anh sẵn sàng hy sinh và dứt bỏ mọi sự để vâng nghe theo lời mời gọi của Chúa Kitô. Trong Tin Mừng Luca, khi Chúa Giêsu sai các môn đệ đi tới các thành, Người nói với các ông rằng: “Này Thầy sai anh em đi như chiên con đi giữa bầy sói”. Khi các anh rời bỏ Sài Gòn và đến những nơi vùng núi, biên cương thì các anh sẽ phải đối đầu với những khó khăn mà nhiều khi người đời cũng phải tránh né. Quả thật, khi các anh quyết định vâng lời Bề Trên và đi tới các vùng truyền giáo, em thấy các anh rất “liều”. Cái “liều” ở đây không phải là cái “liều” theo cách nghĩ của người đời, mà đó là cái “liều” cho một lý tưởng cao đẹp. Theo cái nhìn của em, cái “liều” ở ngoài xã hội  là cái “liều” vì lợi ích bản thân, vì những toan tính xấu xa, cái “liều” đó khiến con người ta phải trả giá một cách đau đớn. Do đó, mới có người ví rằng cái “liều” đó là của những ai giống con thiêu thân đang lao vào trong bóng đèn. Nhưng cái “liều” của các anh là sự liều lĩnh để đem về cho Chúa những linh hồn mới, đem về cho vườn hoa giáo hội những bông hoa đẹp và lạ với nhiều màu sắc và hương thơm ngào ngạt. Với cái “liều” đó, các anh lao vào bóng tối để thắp lên ánh sáng của Chúa Kitô. Cái “liều” của các anh đem lại ơn ích thiêng liêng cho các anh và những người khác, vì vậy đó không phải là sự liều lĩnh vô nghĩa như người đời suy nghĩ. Dù biết rằng, khi dấn thân vào những vùng truyền giáo, các anh sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức, nhưng em nghĩ Chúa vẫn luôn đồng hành bên các anh. Các anh ra đi làm chứng cho Thiên Chúa không phải bằng những kiến thức, tư tưởng triết học hay thần học cao siêu trong các học viện mà bằng chính cuộc sống khó nhọc thường ngày. Như thế, các anh đã thực hiện được lời răn dạy của Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI: “Con người ngày nay cần chứng nhân hơn là thầy dạy”. Em mong rằng Chúa sẽ trả công bội hậu cho những cố gắng không ngừng nghỉ của các anh. Hy vọng các anh sẽ tiếp tục vững bước trong sứ vụ đầy cao cả này.

Em nghĩ các anh cũng phải suy nghĩ và cầu nguyện với Chúa rất nhiều trước khi các anh lên đường theo tiếng gọi của Chúa. Con đường các anh đi đầy rẫy những chông gai, thử thách. Điều đó em cũng cảm nhận được phần nào bởi em cũng đã gặp khó khăn trên con con đường ơn gọi. Vì lẽ đó, em rất hiểu và cảm thông cho những mất mát, đau khổ mà các anh phải chịu đựng. Nhưng em cũng biết những gì em đã trải qua cũng chưa phải là nhiều. Em chưa phải sống nơi biên giới, chưa phải sống nơi rừng núi, chưa phải chịu đựng cái rét thấu xương cũng như cuộc sống nghèo khổ nơi vùng cao nên em vô cùng cảm phục lòng can đảm của các anh. Các anh cũng chỉ là những con người bình thường, làm sao có thể làm được những điều đó? Em nghĩ đó chính là sự tác động của Chúa Thánh Thần nơi các anh. Thần Khí Chúa đang từng ngày biến đổi các anh, Thần Khí Chúa làm cho các anh từ những con người yếu đuối trở nên mạnh mẽ một cách lạ lùng. Khi xưa, các Tông Đồ cũng sợ hãi người Do Thái và trốn trong nhà, nhờ có ngọn lửa thiêng liêng của Chúa Thánh Thần mà các ngài không còn sợ hãi gì nữa. Em nghĩ, từ trời cao các thánh tông đồ sẽ đoái nhìn tới các anh và các ngài sẽ cầu xin Thiên Chúa để các anh có thêm sức mạnh phục vụ Thiên Chúa và giáo hội. Con đường của các anh không chỉ có thử thách mà còn đầy những cám dỗ. Những cám dỗ đó có thể là cám dỗ về vật chất hay cám dỗ về tình cảm. Mở đầu Tin Mừng Máccô, Chúa Giêsu được Thần Khí dẫn vào nơi hoang địa để chịu đựng thử thách và cám dỗ của ma quỷ. Bằng chính tình yêu vào Chúa Cha và sự xác tín vào Lời Chúa, Đức Kitô đã chiến thắng. Từ điều đó, em thấy các anh cũng đang được Thiên Chúa rèn luyện bằng việc đưa các anh vào “sa mạc” của những vùng hoang vu, những nơi nghèo đói để các anh được nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô. Với Jean Paul Sartre – một triết gia hiện sinh vô thần, khi nhìn vào điều đó ông ta sẽ nói các anh bị Chúa ném vào thế gian để bị nghiền nát và vùi dập trong khổ đau và nước mắt một cách vô nghĩa. Nhưng với những ai có lòng tin vào Chúa, họ sẽ nói rằng Chúa để cho những cám dỗ và thử thách xảy đến với các anh, và chính trong hoàn cảnh đó Chúa biến đổi các anh trở nên những nhà truyền giáo đích thực. Có một câu ngạn ngữ châu Phi nói rằng: “Sóng yên biển lặng không làm nên người thủy thủ tài ba”. Em nghĩ nếu không có những đau khổ, đắng cay các anh sẽ không thể thành công, không thể sinh hoa trái cho Giáo hội. Thỉnh thoảng, em suy tư về giáo lý và Lời Chúa, em nhận thấy không chỉ Giáo hội trần thế mà ngay cả Giáo hội thanh luyện và Giáo hội trên thiên đàng đều dõi theo những bước chân của các anh trên các nẻo đường truyền giáo. Em chỉ muốn nói với các anh rằng: “Các anh ơi, các anh đừng nản lòng, các anh hãy lấy Lời Chúa, đức tin và lời cầu nguyện làm kim chỉ nam và khí cụ cho sứ mệnh của các anh”.

Sau cùng, em muốn chia sẻ với các anh một chút suy nghĩ của em về tình yêu thương trong tinh thần huynh đệ. Có lẽ, Cha Tổng Phụ Trách và mọi người nơi các cộng đoàn cũng rất nhớ các anh, và luôn nghĩ về các anh bằng những tình cảm và suy nghĩ sâu sắc. Em cũng như các anh, chúng ta đều được thúc đẩy bởi tình yêu của Thiên Chúa để rồi cùng nhau quy tụ dưới mái nhà của Hiệp Hội Thánh Phaolô tông đồ dân ngoại. Điều này cũng rất chính xác như lời Thánh Phaolô nói với cộng đoàn Côrintô: “Tình yêu Đức Kitô thôi thúc chúng tôi”. Với em, Hiệp Hội là một gia đình, bởi ở đây mọi người đều yêu thương và giúp đỡ lẫn nhau, bản thân em cũng được các anh dìu dắt để từng bước lớn lên trong ơn gọi. Vì vậy, em luôn cảm nhận được một bầu không khí tràn đầy tình yêu Thiên Chúa cũng như tình huynh đệ nơi các cộng đoàn trong Hiệp Hội. Em cho rằng khi các anh vâng lời Bề Trên ra đi rao giảng Lời Chúa, các anh đã đem theo tình yêu thương của nhà dòng đến các vùng truyền giáo, hay đúng hơn các anh đã đem tình yêu Thiên Chúa đến với những ai còn chưa biết Chúa. Thánh Gioan đã khẳng định: “Thiên Chúa là tình yêu”. Và ở đâu có tình yêu, ở đó có Thiên Chúa. Nghĩa là ở các cộng đoàn hay ở các điểm truyền giáo đều có sự hiện diện của Thiên Chúa. Em nghĩ rằng Chúa đã dùng tình yêu của Ngài để kết nối mọi người với nhau. Trong Hiệp Hội chúng ta có các cộng đoàn ở Sài Gòn, Đồng Nai, Bình Phước và các điểm truyền giáo ở nhiều nơi khác nhau như Lào Cai, Nhà Bè, Vĩnh Lộc, Bình Long. Xét theo khía cạnh địa lý, mọi thành viên trong Hiệp Hội cũng như em và các anh đều ở những nơi xa cách nhau. Tuy nhiên, xét theo khía cạnh đức tin, em nhận thấy chúng ta vẫn luôn gần nhau bởi chúng ta được liên kết bởi tình yêu cao vời của Thiên Chúa. Một triết gia từng nói rằng: “Nơi nào có tình yêu, nơi đó có sự sống”. Do đó, em luôn cảm nhận được một sức sống dồi dào và mãnh liệt nơi các cộng đoàn và cả nơi những vùng truyền giáo. Em vẫn phải cảm ơn các anh vì các anh đã cho em thêm tình yêu thương và sự sống nơi công việc của các anh.

Các anh ơi, các anh hãy cố gắng lên, hãy tiếp tục can đảm để đem Chúa đến cho mọi người. Một ngày nào đó, em cũng sẽ theo bước các anh để trở nên vị tông đồ như lòng Chúa mong ước. Em tin các anh sẽ gặt hái được nhiều hoa màu trên cánh đồng truyền giáo. Em tin các anh sẽ thành công dù có thể các anh sẽ gặp phải thất bại. Triết gia người Mỹ Henry Thoreau cho rằng: “Con người sinh ra để thành công, khôn phải để thất bại”. Chính vì thế, em nghĩ Chúa sẽ không bao giờ để các anh thất bại, những thất bại mà các anh đối mặt chỉ là bước đệm để tiến tới thành công. Em và mọi người vẫn luôn hướng về các anh và thêm lời cầu nguyện cho các anh. Chúc các anh mạnh khỏe trong tình yêu Thiên Chúa.

Tạm biệt các anh.

Em của các anh,

Giuse Phạm Quang Huy.